Viêm thận bể thận cấp tính là nhiễm khuẩn do vi khuẩn ngược dòng lên thận hoặc theo đường máu gây ra. Đây là bệnh viêm cấp tính, tiến triển nhanh, gây nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời.
Viêm bể thận cấp là bệnh gì?
Viêm bể thận cấp tính xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, tác nhân phổ biến nhất là vi khuẩn gram âm. Vi khuẩn này có thể đi ngược từ bàng quang lên niệu quản đến đài bể thận hoặc xâm nhập theo đường máu khi bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết.
Viêm thận bể thận thường biểu hiện đột ngột với các dấu hiệu và triệu chứng của viêm toàn thân, có thể gây biến chứng nghiêm trọng và người bệnh thường biểu hiện đau dữ dội vùng hông lưng. Tuy nhiên, nếu bệnh phát hiện sớm người bệnh phần đa được điều trị ngoại trú với kháng sinh, rất ít bệnh nhân cần phải nhập viện.
Viêm thận bể thận cấp tính thường được chia thành 2 loại là viêm không phức tạp và phức tạp.
- Viêm thận bể thận phức tạp: Viêm thận bể thận phức tạp xuất hiện ở phụ nữ mang thai, người tiểu đường không kiểm soát, bệnh nhân ghép thận, người có bệnh lý hệ tiết niệu, người suy thận cấp và mãn, bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
- Viêm thận bể thận cấp tính: Viêm thận bể thận cấp tính kéo dài hoặc tái phát nhiều lần có thể dẫn đến viêm thận bể thận mạn tính.
Nguyên nhân gây bệnh
Có nhiều nguyên nhân gây viêm thận bể thận cấp tính. Tuy nhiên, nguyên nhân thường gặp nhất là vi khuẩn gram âm, phổ biến là Escherichia coli (70-80%) và một số vi khuẩn gram âm khác gồm Proteus mirabilis, Klebsiella, Enterobacter… Ngoài ra, vi khuẩn Gram dương cũng có khả năng là một tác nhân gây bệnh nhưng ít gặp hơn (dưới 10%) như Enterococcus, Staphylococcus…
Các yếu tố thuận lợi cho bệnh viêm thận bể thận cấp tính:
- Nhiễm khuẩn tiết niệu ngược dòng trong trào ngược bàng quang – niệu quản.
- Nhiễm khuẩn do chụp thận ngược dòng (UPR).
- Nhiễm khuẩn sau phẫu thuật tiết niệu.
- Tắc nghẽn đường tiết niệu do sỏi, do khối u, xơ sau phúc mạc, hội chứng chỗ nối, hẹp bể thận niệu quản…
- Tắc nghẽn đường tiểu do có thai.
- Ổ viêm khu trú: viêm tuyến tiền liệt, viêm bàng quang, viêm ruột thừa, viêm trực tràng, viêm phần phụ…
- Giao hợp không bảo đảm vệ sinh.
Biểu hiện viêm bể thận cấp tính
Các dấu hiệu nhiễm khuẩn bể thận cấp tính thường xuất hiện rầm rộ với các biểu hiện như:
- Đột ngột sốt cao (sốt cao hơn 38.9 độ C), có nhu cầu đi tiêu khẩn cấp, bệnh nhân rét run, thể trạng suy sụp nhanh chóng, lưỡi bẩn, môi khô nứt nẻ, nước tiểu có mùi tanh, có màu đục, có mủ hoặc có máu…
- Khi sử dụng thuốc hạ sốt, cơn sốt của người bệnh chỉ giảm đi trong một khoảng thời gian ngắn (vài giờ) sau đó cơn sốt lại bùng phát rầm rộ trở lại. Bệnh nhân than đau ở vùng sườn lưng, có thể chỉ đau một bên hoặc đau cả hai bên (hiếm khi hai bên).
- Cơn đau âm ỉ hoặc đôi khi cảm thấy đau dữ dội như bị dao đâm. Cơn đau có thể lan xuống vùng bàng quang, lan ra cả bộ phận sinh dục ngoài. Khi vỗ vào vùng hố sườn lưng của bệnh nhân sẽ có phản ứng, đau, tức, đây là biểu hiện chẩn đoán bệnh rất có giá trị, đặc biệt là khi bệnh nhân đau một bên.
- Một số bệnh nhân viêm thận bể thận cấp có kèm hội chứng bàng quang (nhưng không phải người bệnh nào cũng có các triệu chứng này) như: tiểu buốt, cảm giác nóng rát, tiểu rắt, mót tiểu và phải rặn liên tục, nước tiểu đục, thậm chí tiểu ra máu.
- Xét nghiệm máu thấy bạch cầu tăng, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính tăng, có thể mắc kèm với nhiễm khuẩn huyết. Khi ure và chỉ số creatinin máu tăng cao có nghĩa là có suy thận cấp hoặc có đợt cấp của suy thận mạn. Có thể xuất hiện cơn đau quặn thận.
Ngoài ra một số bệnh nhân vào đợt cấp viêm thận bể thận còn biểu hiện chán ăn, ăn không ngon, buồn nôn, bụng trướng, mệt mỏi rã rời…
Biến chứng của bệnh
Viêm thận bể thận là căn bệnh nhiễm trùng cấp tính, nếu không chuẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như: Nhiễm khuẩn huyết, suy thận, hoại tử thận, áp xe thận và vùng quanh thận…
- Áp xe thận: là hiện tượng xuất hiện ổ mủ quanh thận do có nhiễm trùng các mô mềm xung quanh thận. Nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh có thể gặp biến chứng nguy hiểm.
- Nhiễm khuẩn huyết: Là tình trạng vi khuẩn lan tràn vào trong máu, biểu hiện tình trạng nhiễm trùng toàn thân nặng, có thể gây nên tình trạng sốc nhiễm khuẩn và suy đa tạng. Nhiễm khuẩn huyết có thể nguy hiểm đến tính mạng nếu không được điều trị đúng và kịp thời.
- Suy thận cấp: Đây là biến chứng nguy hiểm của viêm thận bể thận cấp, biểu hiện bằng việc thiểu niệu hay vô niệu, xét nghiệm máu nồng độ ure/creatinin tăng rất cao. Tình trạng suy thận cấp có thể gây nên các biến chứng như tăng huyết áp cấp hay phù phổi cấp có thể nguy hiểm đến tính mạng, nếu không được điều trị đúng mực suy thận cấp có thể tiến triển thành suy thận mạn tính.
- Hoại tử nhú thận: Tình trạng nhiễm trùng nặng viêm thận bể thận kéo dài gây hoại tử các nhú thận khiến toàn bộ hoặc một phần của nhú thận bị chết. Nhú thận là nơi mở của ống góp vào thận và là nơi nước tiểu chảy vào niệu quản, khi hoại tử, nhú thận bong ra và theo nước tiểu gây nên tình trạng tắc nghẽn ở niệu quản hoặc niệu đạo. Nếu không được giải quyết, sẽ là nguyên nhân trở nặng khi ứ mủ bể thận. Từ đó, người bệnh có nguy cơ suy thận cấp, đau quặn.
- Tình trạng kháng kháng sinh: Một phần do bản chất loại vi trùng đa đề kháng, một phần do dùng kháng sinh không phù hợp, không đủ liều và không đủ lâu.
- Viêm thận bể thận mạn, suy thận mạn: Bệnh viêm thận bể thận cấp có tình trạng kháng kháng sinh và tái viêm thường xuyên. Nếu không theo dõi, điều trị đúng sẽ dẫn đến tình trạng viêm thận bể thận mạn, suy thận mạn. Lúc này việc điều trị sẽ khó khăn, tốn kém hơn cho người bệnh.
Điều trị bệnh
Dùng thuốc kháng sinh
Thuốc kháng sinh là liệu trình đầu tiên có tác dụng chống lại bệnh viêm thận bể thận cấp. Tuy nhiên, loại kháng sinh mà bác sĩ chọn tùy thuộc vào việc có thể xác định được vi khuẩn hay không. Nếu không, một loại kháng sinh phổ rộng được sử dụng.
Mặc dù thuốc có thể chữa khỏi nhiễm trùng trong vòng 2 đến 3 ngày, nhưng thuốc phải được uống trong toàn bộ thời gian kê đơn (thường là 10 đến 14 ngày). Điều này đúng ngay cả khi bệnh nhân cảm thấy tốt hơn.
Các lựa chọn kháng sinh là:
- Aminopénicillines: Có thể dùng đơn độc hay phối hợp với Acide clavulanique.
- Aminoglycosides: Có thể dùng đơn độc hay phối hợp với aminopénicillines.
- Aztréonam, Cephalosporines thế hệ 2 hoặc thế hệ 3…
- Cotrimoxazole, Fluoroquinolones.
Nhập viện điều trị
Đối với tình trạng nhiễm trùng thận nặng hoặc nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết kèm theo, bác sĩ có thể cho bệnh nhân nhập viện. Thời gian lưu trú của bệnh nhân phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng và mức độ đáp ứng của bệnh nhân với điều trị.
Điều trị có thể bao gồm kháng sinh và truyền dịch tĩnh mạch trong 7-14 ngày. Loại kháng sinh được ưu tiên theo kháng sinh đồ. Khi bệnh nhân ở trong bệnh viện, các bác sĩ sẽ theo dõi máu và nước tiểu của bệnh nhân để theo dõi tình trạng nhiễm trùng. Bệnh nhân có thể sẽ nhận được thuốc kháng sinh uống tiếp tục thêm 10 đến 14 ngày sau khi xuất viện.
Phẫu thuật
Nhiễm trùng thận tái phát có thể do một vấn đề y tế tiềm ẩn. Trong những trường hợp đó, phẫu thuật có thể được yêu cầu để loại bỏ bất kỳ vật cản nào hoặc để sửa chữa bất kỳ vấn đề cấu trúc nào trong thận. Phẫu thuật cũng có thể cần thiết để dẫn lưu ổ áp xe không đáp ứng với thuốc kháng sinh.
Trong trường hợp nhiễm trùng nặng, phẫu thuật cắt bỏ thận có thể là cần thiết. Trong thủ tục này, một bác sĩ phẫu thuật loại bỏ một phần của thận.
Bệnh viêm bể thận cấp tính thường tiến triển tốt và sẽ hồi phục hoàn toàn khi được điều trị sớm, điều trị đúng thuốc, sau vài ngày sẽ cắt cơn sốt, nước tiểu trong trở lại, thường là sau 1- 2 tuần.
Tuy nhiên, nếu điều trị muộn hoặc điều trị không đúng cách thì bệnh dễ xuất hiện biến chứng: Dễ tái phát, có thể chuyển thành viêm nhiễm mạn tính, dẫn đến suy thận, ứ mủ thận, hoại tử núm thận, nhiễm khuẩn huyết… thậm chí có thể làm bệnh nhân tử vong.
Add comment